tr4
Đức tin không việc làm là đức tin chết
Anh, Chị, Em ATN thân mến!
Chúng ta đang sống năm Đức Tin và đã trải qua một nửa năm rồi, nên tôi muốn nhân dịp này chia sẻ với mọi người một vài suy tư cá nhân liên quan tới vấn đề Đức tin. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Thánh Giacôbê tông đồ trong thư gửi cho Cộng đoàn tín hữu thuộc 12 chi tộc sống rải rác khắp nơi, ở đoạn 2 câu 17, Thánh Nhân có đưa ra lời dạy, đúng ra là lời cảnh báo mọi người chúng ta là những người mệnh danh là Kitô hữu hay tín hữu hãy nghiêm túc kiểm điểm lại xem niềm tin của chúng ta thế nào, đời sống Đức tin của chúng ta ra sao. Có vững mạnh sắc son không? Niềm tin của chúng ta có mang lại hoa trái cho bản thân và phát sinh lợi ích nơi tha nhân không? Để trả lời câu hỏi này, Thánh Nhân đã cung cấp cho chúng ta một “liệu pháp”, một bửu bối rất đơn giản và hiệu nghiệm: Đức tin phải có việc làm đi kèm theo, Đức tin phải biến thành hành động. “Đức tin không việc làm là Đức tin chết.” Ý nghĩa của từ chết ở đây có thể hiểu một cách nôm na là đức tin không còn hiện hữu, và như vậy sẽ không mang lại lợi ích gì cho bản thân người tín hữu và cũng sẽ không phát sinh hoa trái gì nơi cộng đồng, chẳng khác gì khái niệm chết trong thế giới sinh học: một con vật chết, một cái cây chết là kết thúc mọi hoạt động sinh hóa trong nó. Do đó, không có sự sinh trưởng và không còn sự trao đổi quan hệ gì với thế giới xung quanh nữa. Nói khác đi, nó không còn hiện hữu, nó trở thành hư vô. Thông qua khái niệm chết trong phạm vi sinh học, chúng ta phần nào hiểu về ý nghĩa của từ chết của Đức tin mà Thánh Giacôbê đã muốn sử dụng để cảnh báo chúng ta: Chúng ta phải sống Đức tin, phải biến Đức tin thành hành động trong cuộc sống thường ngày. Có như vậy thì Đức tin mới tồn tại, Đức tin mới sống động và sinh lợi ích cho bản thân người tín hữu và trổ sinh hoa trái cho cộng đồng nhân loại.
Rất nhiều sự kiện trong Tin Mừng đã chứng minh điều này đầy thuyết phục:
- Người phụ nữ bị bệnh hoại huyết 12 năm đã được ơn lành bệnh vì chị có niềm tin vững mạnh vào Đức Giêsu đến nỗi chị tin là chỉ cần chạm tới gấu áo của Người thì cũng đủ để được lành mạnh. Và bằng mọi giá chị đã thực hành việc này. Cuối cùng, chị đã thành công. (Mc. 5, 27)
- Anh què 38 năm bên hồ Bethzatha nhờ có lòng tin sắt đá mà đã được Chúa chữa lành. (Ga. 8, 25)
- Anh mù ở Giêricô được sáng mắt vì đã tin vào Chúa Giêsu có thể chữa lành anh, và anh đã tìm mọi cách để đến được với Người. Và anh đã được mãn nguyện. (Mc. 10, 52)
- Câu chuyện Chúa Giêsu cho con gái ông chủ hội đường tên Gia-ia sống lại cũng vì lòng tin vững mạnh của ông nơi Chúa Giêsu. (Mc. 5, 41)
Tóm lại, rất nhiều các sự kiện được tường thuật trong Tin Mừng đã chứng minh cho ta thấy, chúng ta phải có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa và phải nỗ lực hết sức mình để thể hiện niềm tin đó một cách cụ thể thông qua các hành động thiết thực. Có như vậy thì lòng tin mới đem lại lợi ích cho chủ thể và trổ sinh hoa trái nơi cộng đồng…
Đây chính là nhiệm vụ cao cả, là thiên chức, là hồng ân của mỗi tín hữu khi lãnh nhận phép Thánh tẩy mà chúng ta phải chu toàn trước Thiên Chúa toàn năng: chức Ngôn sứ, chức Tư tế, và chức Vương đế.
Câu chuyện sau đây sẽ minh họa cho những suy tư và lập luận trên đây là có cơ sở và chứng minh cho chúng ta một cách thuyết phục rằng: Một người có niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa tốt lành và nhân hậu sẽ có một cuộc sống an bình và thanh thản trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống, bất kể lúc thành công hay khi gặp thất bại, gian nan khốn khó…
Đây là câu chuyện khó tin nhưng có thật đã xảy ra ở Việt Nam sau 30/04/1975.
Đầu đuôi câu chuyện như sau:
Có một thầy bùa ngãi rất cao tay. Y đã dùng mọi phương pháp thư ếm để dụ dỗ nhiều phụ nữ sa vào tay y… Người ta đã muốn tố cáo y với chính quyền để có biện pháp trừng trị hầu tránh một tai họa. Nhưng không ai dám đứng ra tố cáo vì sợ bàn tay thư ếm của ý. Vả lại chính quyền cũng lờ đi sợ đụng chạm đến Tôn giáo vì y là một thầy phù thủy có hạng trong vùng. Nhân cơ hội y dùng tà ma, bùa phép, khiển âm binh để chữa bệnh cho một thiếu phụ. Chẳng may thiếu phụ này chết, không biết có phải tại bùa phép hay tại bệnh. Nhưng chính quyền cũng cứ cho là tại y chữa bệnh mà không có giấy phép hành nghề. Y bị bắt và bị truy tố. Nhân cơ hội này đã có rất nhiều đơn tố cáo y lợi dụng bùa phép để làm hại nhiều phụ nữ. Thầy phụ thủy bị tố cáo trước pháp luật vì nhiều tội danh bất tránh. Kết quả là tòa kêu án chung thân. Y rất lo sợ, buồn phiền vì những việc làm bất chính của y. Vào tù được ít tháng thì y bị bệnh nặng. Biết mình sắp chết cho nên y nói với người bạn tù rằng: “Tôi sẽ chết. Và trước khi chết, tôi trối lại cho anh tất cả những gì tôi có trong nhà tù này. Vậy khi nào anh có dịp được gặp gia đình thì nhờ anh thông báo cho vợ con tôi nên từ bỏ cái nghề mạt rệp mà tôi đã làm, vì nó chẳng có lợi ích gì cho ai, chỉ làm hại người ta. Hơn nữa, tôi cũng nhân cơ hội này dám hỏi anh một bí quyết: Tại sao từ ngày anh vào tù, tôi thấy anh lúc nào cũng vui vẻ, hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Tương lại, mạng sống, sức khỏe anh coi như pha. Lúc nào cũng tươi cười vui vẻ, còn hát xướng được. Tôi thấy anh lấy dây dài thắt nốt từng khúc và ngồi nghiêm trang lâm râm khấn vái, tay thì đếm từng nút dây. Mặt anh lúc nào cũng vui tươi. Tôi thấy mà thèm, tiếc cho cái thân phận của tôi.”
Nhân cơ hội này, anh bạn tù trả lời hết và giải đáp tất cả mọi vấn đề mà anh phù thủy thắc mắc: “Sỡ dĩ tôi an tâm là vì tôi là người Công giáo. Sống chết đã có định số. Cuộc sống ở thế gian này chỉ là phù du, nay còn mai mất. Sinh ra ở trên trái đất này, sống ở nhà hay sống trong tù cũng chỉ là sống trên trái đất mà thôi. Có gì phải quan tâm. Chúng tôi tin vào quyền năng của Thiên Chúa và tin vào Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng tôi. Đức Mẹ đã hiện ra nhiều nơi trên trái đất và truyền cho chúng tôi phải năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ thì Đức Mẹ sẽ cứu thoát khỏi tù đày và gìn giữ bằng an để sớm được về với gia đình, sống thánh thiện cho đến chết. Cái dây mà anh thấy tôi thắt nút chính là chuỗi hạt Mân Côi tự tạo. Ở ngoài đời, người ta làm bằng gỗ, bằng kim khí công phu và đẹp đẽ. Nhưng ở trong tù thì quy chế không cho phép đem đồ Đạo vào nên tôi đã phải thắt nút dây để làm thành chuỗi Mân Côi và đọc kinh kính Đức Mẹ. Nhờ đó mà tôi đã sống an vui, bình thản. Nếu đêm nay người ta có đem tôi ra pháp trường bắn bỏ cũng được. Tôi phó dâng tất cả cho Đức Mẹ gìn giữ.” Thầy phù thủy nghe nói rất cảm động, tự nhiên thấy phấn khởi và muốn nhờ anh bạn dạy Đạo cho và cũng tập lần chuỗi Mân Côi. Anh cũng bắt chước người bạn tù lấy dây thắt nút làm chuỗi Mân Côi và học để được biết cách lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Từ đó, anh cảm thấy vui tươi, an bình, không còn thấy muốn chết nữa. Anh đã khỏe mạnh trở lại, vui vẻ trò chuyện, hát xướng suốt ngày. Hai anh ngày càng trở thành đôi bạn thân thiết, trìu mến nhau cách lạ thường.
Cho đến một ngày, đúng là do lời cầu nguyện bằng chuỗi hạt Mân Côi của cả hai anh tù, chính phủ đã có sự thay đổi về chính sách và tuyên bố khoan hồng cho các tù nhân kể cả những người tù chung thân đã ở được 10 năm. Thầy phù thủy cũng được tha trở về với gia đình cùng với anh bạn. Cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa và Đức Mẹ Mân Côi, anh đã bỏ tất cả, bán hết của cải xin vào dòng tu để chuộc lại những tội lỗi suốt mấy chục năm qua. Anh đã sống thánh thiện 15 năm trong tu viện, lao động cực nhọc, chỉ ăn cơm với muối và siêng năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ cho đến chết…
Chú giải: Câu chuyện trên đây được kể lại trong Tu viện dòng Thánh Đaminh. Nhờ gương sáng của một chiến sĩ Công giáo có niềm tin vững mạnh mà cảm hóa được một tội nhân, một thầy phù thủy khét tiếng được ơn ăn năn trở lại. Nếu không có vụ bị bắt, bị tù thì làm sao mà một thầy phù thủy có thể được ơn cải tử hoàn sinh như vậy. Gương sáng rất quan trọng. Như chúng ta đã biết, “lời nói gió bay, gương bày trước mắt”, dân gian vẫn nói như vậy. Chuỗi hạt Mân Côi của nhà bác học Andre Ampere có giá trị hơn 1000 bài thuyết giảng hùng biện.
Thảo Dân